Bên cạnh PHÂN TÍCH ĐỀ THI THẬT TASK 2 (dạng advantages & disadvantages) Some students work while studying. Discuss the advantages and disadvantages of this trend and give your opinion?NGÀY 04/8/2020 IELTS WRITING GENERAL MÁY TÍNH (kèm bài được sửa hs đi thi), IELTS TUTOR cũng cung cấp luyện đề Bestcom-Considerate Computing (Đề thi IELTS READING 23/09/2023)
I. Kiến thức liên quan
II. Làm bài online (kéo xuống cuối bài blog để xem giải thích từ vựng & cấu trúc cụ thể hơn)
III. Bestcom-Considerate Computing (Đề thi IELTS READING 23/09/2023)
Bestcom-Considerate Computing
‘Your battery is now fully charged,’ announced the laptop to its owner Donald A. Norman in a synthetic voice, with great enthusiasm and maybe even a hint of pride. For the record, humans are not at all unfamiliar with distractions and multitasking. ‘We are used to a complex life that gets constantly interrupted by computer’s attention-seeking requests, as much as we are familiar with procreation,’ laughs Ted Selker of the Massachusetts Institute of Technology (MIT) Media Lab,
Humanity has been connected to approximately three billion networked telephones, computers, traffic lights and even fridges and picture frames since these things can facilitate our daily lives. That is why we do not typically turn off the phones, shut down the e-mail system, or close the office door even when we have a meeting coming or a stretch of concentrated work. We merely endure the consequences.
Countless research reports have confirmed that if people are unexpectedly interrupted, they may suffer a drop in work efficiency, and they are more likely to make mistakes. According to Robert G. Picard from the University of Missouri, it appears to build up the feeling of frustration cumulatively, and that stress response makes it difficult to focus again. It is. not solely about productivity and the pace of life. For some professionals like pilots, drivers, soldiers and doctors, loss of focus can be downright disastrous. ‘If we could find a way to make our computers and phones realise the limits of human attention and memory, they may come off as more thoughtful and courteous,’ says Eric Horvitz of Microsoft Research. Horvitz, Selker and Picard are just a few of a small but prospering group of researchers who are attempting to make computers, phones, cars and other devices to function more like considerate colleagues instead of egocentric oafs. >> IELTS TUTOR lưu ý: Phân tích và sửa chi tiết đề thi IELTS SPEAKING 4/8 [Audio+Transcript]
To do this, the machines need new skills of three kinds: sensing, reasoning and communicating. First, a system must: sense or infer where its owner is and what he or she is doing. Next, it must weigh the value of the messages it wants to convey against the cost of the disruption. Then it has to. choose the best mode and time to interject: Each of these pushes the limits of computer science and raises issues of privacy, complexity or reliability. Nevertheless, ‘Attentive’ Computing Systems, have started to make an appearance in the latest Volvos, and IBM has designed and developed a communications software called WebSphere that comes with an underlying sense of busyness. Microsoft has been conducting extensive in-house tests of a way more sophisticated system since 2003. In a couple of years, companies might manage to provide each office employee with a software version of the personal receptionist which is only available to corner-suite executives today.
However, the truth is that most people are not as busy as they claim to be, which explains why we can often stand interruptions from our inconsiderate electronic paraphernalia. To find out the extent to which such disruption may claim people’s daily time, an IBM Research team led by Jennifer Lai from Carnegie Mellon University studied ten managers, researchers and interns at the workplace. They had the subjects on videotape, and within every period of a specific time, they asked the subjects to evaluate their ‘interruptibility’. The time a worker spent in leave-me-alone state varied from individual to individual and day to day, and the percentage ranged from 10 to 51. Generally, the employees wished to work without interruption for roughly 1/3 of the time. Similarly, by studying Microsoft workers, Horvitz also came to the discovery that they ordinarily spend over 65 per cent of their day in a low-attention mode.
Obviously, today’s phones and computers are probably correct about two-thirds of time by assuming that their users are always available to answer a call, check an email, or click the ‘OK’ button on an alert box. But for the considerate systems to be functional and useful, their accuracy has to be above 65 in sending when their users are about to reach their cognitive limit. >> IELTS TUTOR lưu ý: PHÂN TÍCH ĐỀ THI TASK 1 VIẾT THƯ NGÀY 05/7/2020"you are going to take a holiday and your friend agrees to stay at your house. Write a letter to him for"IELTS WRITING GENERAL MÁY TÍNH (kèm bài được sửa HS đạt 6.0 đi thi thật)
Inspired by Horvitz’s work, Microsoft prototype Bestcom-Enhanced Telephony (Bestcom-ET) digs a bit deeper into every user’s computer to find out clues about what they are dealing with. As I said earlier, Microsoft launched an internal beta test of the system in mid-2003. Horvitz points out that by the end of last October, nearly 3,800 people had been relying on the system to field their incoming calls.
Horvitz is, in fact, a tester himself, and as we have our conversation in his office, Bestcom silently takes care of all the calls. Firstly, it checks if the caller is in his address book, the company directory, or the ‘recent call’ list. After triangulating all these resources at the same time, it attempts to figure out what their relationship is. The calls that get through are from family, supervisors and people he called earlier that day. Other callers will get a message on their screens that say he cannot answer now because he is in a meeting, and will not be available until 3pm. The system will scan both Horvitz’s and the caller’s calendar to check if it can reschedule a callback at a time which works for both of them. Some callers will take that option, while others simply leave a voicemail. The same happens with e-mails. When Horvitz is not in his office, Bestcom automatically offers to transfer selected callers to his cellphone, unless his calendar implies that he is in a meeting. >> IELTS TUTOR lưu ý: PHÂN TÍCH ĐỀ THI THẬT TASK 2 (dạng advantages & disadvantages) Some students work while studying. Discuss the advantages and disadvantages of this trend and give your opinion?NGÀY 04/8/2020 IELTS WRITING GENERAL MÁY TÍNH (kèm bài được sửa hs đi thi)
Questions 14-19
Do the following statements agree with the information given in Reading Passage 2?
In boxes 14-19 on your answer sheet, write
TRUE if the statement is true
FALSE if the statement is false
NOT GIVEN if the information is not given in the passage
14 According to Ted Selker, human reproduction has been disturbed throughout history.
15 If people are interrupted by calls or e-mails, they usually put up with it.
16 Microsoft is now investigating a software which is compatible with ordinary offices.
17 People usually have a misperception about whether they are busy or not.
18 Experts in Carnegie Mellon University conducted a research observing all occupations of IBM.
19 Current phone and computer systems have shortcut keys for people receiving information immediately.
Questions 20-26
Complete the flow-chart below.
Choose ONLY ONE WORD from the passage for each answer.
Write your answers in boxes 20-26 on your answer sheet.

IV. Dịch bài đọc
Bestcom – Máy tính Biết Quan Tâm (Considerate Computing)
‘Pin của bạn hiện đã được sạc đầy’, chiếc máy tính xách tay (laptop) thông báo với chủ nhân của nó, Donald A. Norman, bằng một giọng nói tổng hợp (synthetic), đầy hào hứng và có lẽ còn mang một chút tự hào. Thực tế là, con người không hề xa lạ với sự xao nhãng (distractions) và đa nhiệm (multitasking). ‘Chúng ta đã quen với một cuộc sống phức tạp, liên tục bị gián đoạn (interrupted) bởi những yêu cầu tìm kiếm sự chú ý (attention-seeking) của máy tính, giống như cách chúng ta quen với sự sinh sản (procreation),’ Ted Selker thuộc Phòng thí nghiệm Truyền thông của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT Media Lab) nói đùa.
Con người đã được kết nối với khoảng ba tỷ điện thoại mạng (networked telephones), máy tính (computers), đèn giao thông (traffic lights) và thậm chí cả tủ lạnh (fridges) và khung ảnh (picture frames) vì những thứ này có thể hỗ trợ (facilitate) cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta thường không tắt điện thoại, đóng hệ thống email (shut down the e-mail system) hoặc đóng cửa văn phòng ngay cả khi chúng ta có một cuộc họp sắp diễn ra hoặc đang cần tập trung làm việc. Chúng ta chỉ đơn giản là chịu đựng hậu quả.
Nhiều báo cáo nghiên cứu (research reports) đã xác nhận rằng nếu mọi người bị gián đoạn bất ngờ (unexpectedly interrupted), họ có thể bị giảm hiệu suất làm việc (work efficiency) và có nhiều khả năng mắc lỗi hơn. Theo Robert G. Picard từ Đại học Missouri, điều này dường như tích lũy cảm giác thất vọng (frustration) theo thời gian, và phản ứng căng thẳng đó khiến việc tập trung trở nên khó khăn hơn. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề về năng suất (productivity) và tốc độ làm việc. Đối với một số chuyên gia (professionals) như phi công, tài xế, lính và bác sĩ, mất tập trung có thể gây ra hậu quả thảm khốc (downright disastrous). ‘Nếu chúng ta có thể tìm cách khiến máy tính và điện thoại hiểu được giới hạn của sự chú ý (attention) và trí nhớ (memory) của con người, chúng có thể trở nên sâu sắc hơn (thoughtful) và lịch sự hơn (courteous),’ Eric Horvitz từ Microsoft Research nói. Horvitz, Selker và Picard chỉ là một số ít trong nhóm nhà nghiên cứu đang phát triển mạnh (prospering group of researchers) đang cố gắng khiến máy tính, điện thoại, ô tô và các thiết bị khác hoạt động giống như những đồng nghiệp biết quan tâm (considerate colleagues) thay vì những kẻ vụng về ích kỷ (egocentric oafs).
Để làm được điều này, máy móc cần có ba loại kỹ năng (skills) mới: cảm nhận (sensing), lý luận (reasoning) và giao tiếp (communicating). Đầu tiên, một hệ thống phải cảm nhận hoặc suy ra chủ nhân của nó đang ở đâu và đang làm gì. Tiếp theo, nó phải cân nhắc giá trị của thông điệp mà nó muốn truyền đạt so với chi phí của sự gián đoạn (cost of the disruption). Sau đó, nó phải chọn chế độ và thời điểm tốt nhất để chen vào (interject). Mỗi bước này đều đẩy giới hạn của khoa học máy tính và đặt ra các vấn đề về quyền riêng tư (privacy), độ phức tạp (complexity) hoặc độ tin cậy (reliability). Tuy nhiên, các hệ thống tính toán chú ý (Attentive Computing Systems) đã bắt đầu xuất hiện trong các mẫu xe Volvo mới nhất, và IBM đã thiết kế và phát triển một phần mềm truyền thông có tên WebSphere, đi kèm với một cảm nhận ngầm về sự bận rộn (underlying sense of busyness). Microsoft đã tiến hành các thử nghiệm nội bộ mở rộng (extensive in-house tests) về một hệ thống tinh vi hơn nhiều từ năm 2003. Trong vài năm tới, các công ty có thể sẽ cung cấp cho mỗi nhân viên văn phòng một phiên bản phần mềm của thư ký riêng (personal receptionist), điều mà hiện tại chỉ dành cho các giám đốc điều hành cấp cao (corner-suite executives).
Tuy nhiên, sự thật là hầu hết mọi người không bận rộn như họ nghĩ, điều này giải thích tại sao chúng ta thường có thể chịu được sự gián đoạn từ các thiết bị điện tử thiếu tinh tế (inconsiderate electronic paraphernalia). Để tìm hiểu mức độ mà sự gián đoạn có thể ảnh hưởng đến thời gian hàng ngày của mọi người, một nhóm nghiên cứu của IBM do Jennifer Lai từ Đại học Carnegie Mellon dẫn đầu đã nghiên cứu mười nhà quản lý (managers), nhà nghiên cứu (researchers) và thực tập sinh (interns) tại nơi làm việc. Họ đã quay video các đối tượng và trong mỗi khoảng thời gian nhất định, họ yêu cầu các đối tượng đánh giá mức độ mà họ có thể bị gián đoạn (‘interruptibility’). Thời gian mà một nhân viên muốn làm việc không bị gián đoạn thay đổi theo từng cá nhân và từng ngày, dao động từ 10 đến 51%. Nhìn chung, nhân viên muốn làm việc không bị gián đoạn trong khoảng 1/3 thời gian. Tương tự, bằng cách nghiên cứu nhân viên Microsoft, Horvitz cũng phát hiện ra rằng họ thường dành hơn 65% thời gian trong ngày trong trạng thái tập trung thấp (low-attention mode).>> Form đăng kí giải đề thi thật IELTS 4 kĩ năng kèm bài giải bộ đề 100 đề PART 2 IELTS SPEAKING quý đang thi (update hàng tuần) từ IELTS TUTOR
Rõ ràng, điện thoại và máy tính ngày nay có thể đúng khoảng 2/3 thời gian khi giả định rằng người dùng của chúng luôn sẵn sàng trả lời cuộc gọi, kiểm tra email hoặc nhấn nút ‘OK’ trên hộp cảnh báo. Nhưng để các hệ thống biết quan tâm hoạt động hiệu quả, độ chính xác (accuracy) của chúng phải vượt quá 65% trong việc nhận diện khi nào người dùng sắp đạt đến giới hạn nhận thức (cognitive limit).
Lấy cảm hứng từ công việc của Horvitz, nguyên mẫu Bestcom-Enhanced Telephony (Bestcom-ET) của Microsoft đi sâu hơn vào mỗi máy tính của người dùng để tìm manh mối về những gì họ đang làm. Như đã đề cập trước đó, Microsoft đã ra mắt thử nghiệm beta nội bộ (internal beta test) của hệ thống vào giữa năm 2003. Horvitz chỉ ra rằng vào cuối tháng 10 năm đó, gần 3.800 người đã sử dụng hệ thống này để quản lý các cuộc gọi đến.
Horvitz thực sự cũng là một người thử nghiệm, và khi chúng tôi trò chuyện trong văn phòng của anh ấy, Bestcom âm thầm xử lý tất cả các cuộc gọi. Trước tiên, nó kiểm tra xem người gọi có trong sổ địa chỉ (address book), danh bạ công ty (company directory) hoặc danh sách ‘cuộc gọi gần đây’ không. Sau khi đối chiếu (triangulating) tất cả các tài nguyên này cùng lúc, nó cố gắng xác định mối quan hệ (relationship) giữa họ. Những cuộc gọi được chấp nhận là từ gia đình, cấp trên (supervisors) và những người anh ấy đã gọi trong ngày hôm đó. Những người gọi khác sẽ nhận được một thông báo (message) trên màn hình nói rằng anh ấy không thể trả lời ngay bây giờ vì đang trong cuộc họp (meeting) và sẽ không rảnh trước 3 giờ chiều. Hệ thống sẽ kiểm tra lịch làm việc (calendar) của cả Horvitz và người gọi để xem có thể đặt lại lịch (reschedule) cuộc gọi vào một thời điểm phù hợp hay không. Một số người gọi sẽ chọn phương án đó, trong khi những người khác chỉ để lại thư thoại (voicemail). Điều tương tự cũng xảy ra với email. Khi Horvitz không có trong văn phòng, Bestcom tự động đề nghị chuyển tiếp (transfer) một số người gọi đã chọn đến điện thoại di động (cellphone) của anh ấy, trừ khi lịch của anh ấy cho thấy rằng anh ấy đang trong cuộc họp.



V. Giải thích từ vựng


VI. Giải thích cấu trúc ngữ pháp khó

VII. Đáp án
Đáp án:
14. NOT GIVEN
15. TRUE
16. TRUE
17. TRUE
18. FALSE
19. NOT GIVEN
20. clues
21. relationship
22. message
23. reschedule
24. voicemail
25. cellphone
26. meeting

Các khóa học IELTS online 1 kèm 1 - 100% cam kết đạt target 6.0 - 7.0 - 8.0 - Đảm bảo đầu ra - Thi không đạt, học lại FREE
